Xử lý tài sản bảo đảm trong thủ tục phá sản
28 tháng 11, 2014
Khi nhận tài sản bảo đảm, ngoài nỗi lo bên bảo đảm thiếu thiện chí hay
các chủ nợ khác của bên bảo đảm có quyền ưu tiên thanh toán cao hơn mình thì chủ
nợ có bảo đảm còn phải đối diện với một nguy cơ khác là bên bảo đảm phá sản bởi
về nguyên tắc điều này sẽ ít nhiều tác động đến việc xử lý tài sản bảo đảm. Khi
Luật phá sản 2014 được cho là mở ra nhiều cánh cửa hơn cho việc phá sản doanh
nghiệp, nỗi lo này càng có cơ sở hơn.
Bảo vệ tối ưu quyền lợi chủ nợ có bảo đảm
Lý do để một chủ nợ nhận bảo đảm là để tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất
khả năng thanh toán của bên có nghĩa vụ. Sẽ chẳng có nghĩa lý gì nếu một biện
pháp bảo đảm có hiệu quả khi mà bên có nghĩa vụ vẫn có khả năng thanh toán khoản
nợ mà lại không phát huy tác dụng khi bên này mất khả năng thanh toán. Luật phá
sản 2014 tôn trọng nguyên tắc về tính hiệu quả của các biện pháp bảo đảm trong
thủ tục phá sản. Dường như chủ nợ có bảo đảm có thể tiến hành xử lý bảo đảm
ngay cả khi áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh đối với bên bảo đảm
cho dù cách tiếp cận này sẽ giảm đi cơ hội tiến hành thành công thủ tục này.
Hơn nữa, nếu đọc kết hợp điều 53 và điều 54, Luật phá sản 2014, có thể thấy khi
thanh lý tài sản, chủ nợ có bảo đảm vẫn có vị trí ưu tiên thanh toán cao nhất
trong số các chủ nợ của doanh nghiệp, trên cả các khoản nợ đặc biệt khác như chi
phí phá sản, khoản nợ lương, nợ bảo hiểm, khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục
phá sản và các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước (chẳng hạn các khoản thuế).
Có thể xử lý bảo đảm trong thủ tục phục hồi kinh
doanh?
Việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp đối với chủ nợ có bảo đảm tạm thời bị đình chỉ trong thời hạn năm ngày
kể từ ngày Tòa án thụ lý việc phá sản trừ trong trường hợp tài sản bảo đảm có
nguy cơ bị phá hủy hoặc bị giảm đáng kể về giá trị (khoản 3, điều 41). Sau khi
mở thủ tục phá sản, nếu không thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh hoặc tài sản
bảo đảm không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh thì xử
lý theo thời hạn quy định trong hợp đồng đối với trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm
đã đến hạn (điểm b, khoản 1, điều 53). Điểm a, khoản 1, điều 53 quy định đối với
trường hợp tài sản bảo đảm được sử dụng để thực hiện thủ tục phục hồi kinh
doanh thì việc xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện theo Nghị quyết của Hội nghị
chủ nợ. Theo quy định tại khoản 5, điều 91, việc tài sản bảo đảm có được sử dụng
trong việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh hay không là do chủ
nợ có bảo đảm quyết định. Sẽ rất hiếm khi chủ nợ có bảo đảm đồng ý để tài sản bảo
đảm được sử dụng phục vụ việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh. Tuy nhiên, dễ nhận thấy sự mâu thuẫn trong chính quy định tại khoản 1,
điều 53 bởi vì theo khoản điểm a) của khoản này nếu chủ nợ có bảo đảm không đồng
ý với việc sử dụng tài sản bảo đảm trong quá trình thực hiện phương án phục hồi
kinh doanh thì có thể xử lý tài sản bảo đảm khi nghĩa vụ bảo đảm đến hạn trong
khi mà điểm b) dường như không cho phép chủ nợ có bảo đảm xử lý tài sản bảo đảm
nếu như tài sản này cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh. Nếu chọn giải pháp tạm hoãn xử lý tài sản bảo đảm trong quá trình
phục hồi kinh doanh cũng nên đưa ra các tiêu chí rõ ràng để đánh giá tính cần
thiết được đề cập ở đây để cân bằng lợi ích giữa các bên.
Câu trả lời còn dang dở về phương thức xử lý bảo đảm
Điều 53 quy định đối với trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm chưa đến hạn
trước khi tuyên bố doanh nghiệp phá sản thì Tòa án đình chỉ hợp đồng và xử lý
khoản nợ có bảo đảm. Nói cách khác, lúc này nghĩa vụ được bảo đảm mặc nhiên đến
hạn và chủ nợ có bảo đảm được quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Tuy vậy
khoản 3, điều 53 vẫn giữ cách quy định khá mơ hồ của Luật phá sản 2004 là “với khoản nợ có bảo đảm được xác lập trước
khi Tòa án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được thanh toán bằng
tài sản bảo đảm đó”. Cụm từ “được
thanh toán bằng tài sản bảo đảm đó” không rõ ràng và có thể dẫn tới hai
cách hiểu là (i) chủ nợ có bảo đảm được nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế
cho việc thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp hay (ii) việc xử lý tài sản bảo đảm
được thực hiện theo phương thức quy định trong hợp đồng bảo đảm đã ký với doanh
nghiệp. Cách giải thích thứ hai hợp lý hơn bởi
(i) nó tôn trọng thỏa thuận của các bên, (ii) bên nhận bảo đảm nhận
chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm
chỉ là một trong các phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo quy định hiện hành và
(iii) trong thực tế không phải lúc nào chủ nợ có bảo đảm cũng muốn nhận chính
tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm (chẳng
hạn do hạn chế áp dụng đối với ngân hàng trong việc nắm giữ bất động sản – khoản
3, điều 132 Luật các tổ chức tín dụng). Hơn nữa, điều luật này cũng chưa làm rõ
chủ thể nào sẽ có quyền tiến hành bán tài sản bảo đảm (chủ nợ có bảo đảm hay Thẩm
phán – thông qua quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản hay cơ
quan thi hành án). Đây cũng là các khó khăn chính đặt ra khi áp dụng Luật phá sản
2004. Thiết nghĩ, nên tôn trọng quyền của chủ nợ có bảo đảm tức là quy định rõ
chủ nợ có bảo đảm được thực hiện việc bán tài sản bảo đảm để thu hồi nợ như
cách tiếp cận của pháp luật Anh hay Pháp.
Được biết có khoảng chục văn bản
hướng dẫn thi hành Luật phá sản 2014 sẽ được ban hành trong thời gian tới. Hy vọng
các văn bản này sẽ làm rõ các vấn đề nêu trên để tạo điều kiện thuận lợi cho việc
áp dụng trong thực tiễn.
TS. Bùi Đức Giang
Giảng viên BankPro