Tác động của thủ tục phá sản tới người lao động theo quy định mới

9 tháng 12, 2014

Việc mở thủ tục phá sản gây lo ngại đáng kể cho tất cả các bên liên quan, đặc biệt là người lao động. Bởi vì, người lao động có thể mất việc hay không thể đòi chủ sử dụng lao động các khoản nợ phát sinh theo hợp đồng lao động hay theo quy định của pháp luật. Luật phá sản số 51/2014/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2014 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2015 có một số quy định riêng điều chỉnh tác động của thủ tục phá sản đối với người lao động làm việc trong các tổ chức tín dụng. Các quy đinh này được bổ sung bằng các nguyên tắc chung áp dụng cho mọi loại hình doanh nghiệp.
1.      Nguyên tắc chung
Các thủ tục phá sản – Thủ tục phá sản quy định trong Luật Phá sản 2014 (LPS 2014), bao gồm hai thủ tục chính là thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và thủ tục tuyên bố phá sản. Đối với doanh nghiệp mất khả năng thanh toán[1], không nhất thiết phải thực hiện lần lượt hai thủ tục này để được phá sản. Thủ tục mở thủ tục phá sản (điều 42 và các điều tiếp theo) là bước đệm cho việc mở các thủ tục này. Nhìn chung, các quy định mới linh hoạt hơn và có tính ứng dụng cao hơn so với Luật phá sản 2004, mở ra nhiều cánh cửa hơn cho doanh nghiệp để rút khỏi thị trường một cách hợp pháp[2].
Thực hiện quyền của người lao động trong thủ tục phá sản – So với Luật phá sản 2004, Luật phá sản 2014 tăng cường hơn quyền lợi của người lao động trong thủ tục phá sản. Thực vậy, theo quy định tại khoản 2, điều 5, người lao động có quyền trực tiếp nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp là chủ sử dụng lao động khi hết thời hạn ba tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ trả lương, các khoản nợ khác đối với người lao động mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tòa án tiến hành thủ tục phá sản có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động (điểm h, khoản 1, điều 70). Thêm vào đó, dù về nguyên tắc việc thi hành án dân sự về tài sản mà doanh nghiệp là người phải thi hành án bị tạm hoãn sau khi Tòa án thụ lý vụ việc phá sản, song nếu bản án hay quyết định của Tòa án buộc doanh nghiệp phải trả lương cho người lao động thì doanh nghiệp vẫn phải thi hành chứ không được hưởng việc tạm hoãn (khoản 1, điều 41). Khoản 2, điều 77 quy định đại diện cho người lao động, đại diện công đoàn được người lao động uỷ quyền được tham gia hội nghị chủ nợ như chủ nợ. Điều này có nghĩa là người lao động không được trực tiếp tham gia Hội nghị chủ nợ. Đây cũng là cách tiếp cận của Luật phá sản 2004 (khoản 2, điều 62), chỉ có điều nếu như văn bản này giải thích cụ thể cơ chế cử đại diện cho người lao động tại khoản 1 điều 14 thì LPS 2014 không có quy định tương tự. Đây là một điểm khuyết mà các văn bản hướng dẫn thi hành LPS 2014 cần làm rõ. Cũng cần lưu ý sau khi Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, việc người lao động khởi kiện doanh nghiệp bị tạm đình chỉ. Tòa án thụ lý đơn khởi kiện phải chuyển hồ sơ cho Tòa án đang tiến hành thủ tục phá sản để giải quyết ngay sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Nếu thắng kiện, người lao động chỉ được thanh toán khi thanh lý tài sản của chủ dụng lao động (khoản 2, điều 41, khoản 2, điều 71 và điểm a, khoản 2, điều 72).
Số phận các hợp đồng lao động – Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, về nguyên tắc doanh nghiệp vẫn hoạt động bình thường (khoản 1, điều 47, LPS 2014), tức là hợp đồng với người lao động vẫn được duy trì. Doanh nghiệp vẫn được trả lương cho người lao động nhưng phải được sự đồng ý của quản tài viên hoặc của doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản (điểm c, khoản 1, điều 49).
Doanh nghiệp có thể được áp dụng phục hồi hoạt động kinh doanh  hoặc thủ tục tuyên bố phá sản. Về lý thuyết thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh tạo ra một cơ chế cho việc duy trì hoặc tổ chức lại hoạt động doanh nghiệp có khả năng phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh, từ đó tạo ra nguồn thu để thanh toán cho các chủ nợ. Kể từ ngày triển khai thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp không phải xin phép quản tài viên hoặc của doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản khi trả lương cho người lao động (khoản 1, điều 92).
Một câu hỏi đặt ra là liệu người lao động có thể hy vọng thủ tục này sẽ là lối thoát giúp họ tránh được tình trạng mất việc? Cần phải thấy việc có triển khai thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của các chủ nợ và ngay cả trong trường hợp phương án phục hồi hoạt động kinh doanh được thực hiện thì cũng không có gì bảo đảm doanh nghiệp sẽ khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán. Điều đáng buồn trong thực tế là việc mở thủ tục phá sản thường đồng nghĩa với việc tìm ra cách thức tốt nhất để chia sẻ tổn thất tài chính chứ không phải là triển vọng phục hồi được hoạt động kinh doanh.
Theo quy định tại khoản 7, điều 36, Bộ luật lao động, khi một doanh nghiệp chấm dứt hoạt động thì hợp đồng lao động của người lao động ký với doanh nghiệp này đương nhiên chấm dứt. Việc tòa án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản đồng nghĩa với việc chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp phá sản. Chính vì thế quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản phải nêu nội dung chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động và giải quyết quyền lợi của người lao động (điểm đ, khoản 1, điều 108, LPS 2014). Nói cách khác, khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, tất cả các hợp đồng lao động ký với doanh nghiệp này sẽ chấm dứt.
Khi thanh lý tài sản, cùng với các khoản nợ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, các khoản nợ người lao động của doanh nghiệp (nợ lương, trợ cấp thôi việc, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký) đứng thứ ba trong thứ tự ưu tiên thanh toán  lần lượt sau chi phí phá sản và chủ nợ có bảo đảm[3] và có thứ tự ưu tiên thanh toán cao hơn các khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản, các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước và các khoản nợ không có bảo đảm. Cho dù đây là một vị trí ưu tiên thanh toán khá tốt song cần lưu ý là nguy cơ đặt ra ở đây là doanh nghiệp không còn tài sản nào sau khi thanh toán hết các chủ nợ có bảo đảm và/hoặc chi phí phá sản.
2.      Tác động của phá sản tổ chức tín dụng
Thủ tục phá sản tổ chức tín dụng Việc phá sản các tổ chức tín dụng đã được luật hóa tại các điều từ 97 cho tới điều 104, LPS 2014.  Về nguyên tắc, những nội dung không quy định tại các điều này thì sẽ được điều chỉnh bởi các quy định tương ứng của LPS 2014. Tuy nhiên, các quy định của LPS 2014 về Hội nghị chủ nợ (chương VI) và về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh (chương VII) sẽ không được áp dụng trong trường hợp phá sản tổ chức tín dụng (điều 97).  Lý do nằm ở chỗ Luật các tổ chức tín dụng đã quy định về biện pháp kiểm soát đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước áp dụng đối với tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng chi trả hay mất khả năng thanh toán (điều 145 đến điều 152).
Tòa án chỉ thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi nhận được văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán (điều 99, LPS 2014).
Quy định về lao động Liên quan đến vấn đề lao động, LPS 2014 chỉ quy định riêng về quyền của người lao động được nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với tổ chức tín dụng và thứ tự phân chia tài sản khi thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng sau khi đã có quyết định tuyên bố tổ chức tín dụng phá sản. Điều đó có nghĩa là đối với các khía cạnh khác, các nguyên tắc chung nêu trên sẽ được áp dụng.
Theo quy định tại điều 98, LPS 2014, chỉ sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng vẫn mất khả năng thanh toán thì người lao động (chưa được thanh toán lương hay khoản nợ khác khi hết thời hạn ba tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán) mới được nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Mặt khác, khi đọc kết hợp các điều 100, 101 và 53, LPS 2014 với khoản 2, điều 151, Luật các tổ chức tín dụng, có thể thấy các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc và các quyền lợi khác của người lao động theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể (i) đứng sau chi phí phá sản, khoản nợ có bảo đảm và khoản vay đặc biệt mà Ngân hàng Nhà nước hay tổ chức tín dụng khác đã cấp cho tổ chức tín dụng được áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt và (ii) có thứ tự ưu tiên thanh toán cao hơn khoản tiền gửi, khoản tiền tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải trả cho người gửi tiền tại tổ chức tín dụng phá sản, nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước và khoản nợ không có bảo đảm.
Có thể thấy LPS 2014 đã quy định khá cụ thể các khía cạnh khác nhau liên quan đến tác động của thủ tục phá sản đối với người lao động. Người lao động làm việc trong ngân hàng cũng như trong các doanh nghiệp khác cần chủ động theo dõi quá trình mở thủ tục phá sản để thực hiện các quyền lợi của mình.

******



[1]  Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán “khi không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn ba tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán” (khoản 1, điều 4).
[2] Xem thêm T.S Bùi Đức Giang, “Một số điểm mới của Luật phá sản 2014 nhìn từ góc độ thực tiễn”, Tạp chí Ngân hàng, số 15, tháng 8 năm 2014.


[3] Xem thêm TS. Bùi Đức Giang, “Xử lý tài sản bảo đảm trong thủ tục phá sản”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 41-2014 (1.243), 9 tháng 10 năm 2014.

TS. Bùi Đức Giang, Giảng viên BankPro
Chia sẻ bài viết ^^
Other post