
(TBKTSG)
- Chỉ còn vài ngày nữa là Luật Doanh nghiệp 2014 sẽ chính thức có hiệu
lực. Có khá nhiều quy định mới trong văn bản này sẽ tác động đáng kể đến
việc cho vay và nhận tài sản bảo đảm của ngân hàng.
Tìm hiểu thông tin doanh nghiệp vay
Để đảm bảo tuân thủ quy định về điều kiện cho vay do Ngân hàng Nhà nước
ban hành, ngân hàng phải tìm hiểu xem liệu dự án đầu tư và phương án
sản xuất, kinh doanh mà bên vay đề xuất có phù hợp với hoạt động kinh
doanh mà bên vay đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh hay không.
Nếu trước đây, khi xem xét hồ sơ pháp lý của khách hàng, ngân hàng chỉ
cần xem giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, thì theo quy định của Luật
Doanh nghiệp 2014, ngân hàng bắt buộc phải (i) kiểm tra điều lệ do bên
vay cung cấp (do ngành nghề kinh doanh không còn là một nội dung bắt
buộc trên giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp nữa); hoặc (ii) đề nghị
cung cấp thông tin về nội dung đăng ký doanh nghiệp (do ngành, nghề kinh
doanh là nội dung đăng ký kinh doanh mà doanh nghiệp bắt buộc phải công
bố) thông qua Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp hoặc trực
tiếp tại cơ quan đăng ký kinh doanh với điều kiện phải trả phí (điều 33
và 34).
Dễ nhận thấy cách tìm thông tin thứ hai đáng tin cậy hơn. Tuy nhiên, nó
cũng sẽ khiến ngân hàng tốn thêm chi phí và thời gian, nhất là trong
bối cảnh cho tới thời điểm hiện tại, do một số yếu tố mang tính kỹ thuật
về hệ thống thanh toán phí, việc tìm thông tin qua Cổng thông tin quốc
gia về đăng ký doanh nghiệp vẫn chưa thực sự hiệu quả.
Xác định thẩm quyền của người ký hợp đồng
Trong thực tế có khá nhiều hợp đồng tín dụng và bảo đảm bị tòa án tuyên
bố vô hiệu do người ký hợp đồng không có thẩm quyền nhân danh doanh
nghiệp vay. Điều 13, Luật Doanh nghiệp 2014 mở ra khả năng đối với công
ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần được có nhiều người đại diện
theo pháp luật với điều kiện điều lệ công ty phải quy định cụ thể số
lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo
pháp luật đó. Một câu hỏi đặt ra là trong trường hợp một trong số những
người đại diện xác lập hợp đồng vay hay bảo đảm vượt quá phạm vi đại
diện của mình thì sẽ dẫn tới hệ quả pháp lý nào?
Rất tiếc là Luật Doanh nghiệp 2014 chưa đưa ra được giải pháp cho vấn
đề này. Về điểm này, pháp luật của Anh quy định vì lợi ích của mọi bên
thứ ba giao dịch với một công ty một cách ngay tình, quyền hạn của các
giám đốc (người đại diện) được nhân danh công ty (hoặc ủy quyền lại cho
người khác hành động nhân danh công ty) được coi như không chịu bất cứ
giới hạn nào theo các văn bản nội bộ của công ty. Nói cách khác, một bên
giao dịch với công ty không có nghĩa vụ phải tìm hiểu việc giới hạn
thẩm quyền của người đại diện trong điều lệ và được coi là hành động
ngay tình trừ khi công ty có thể chứng minh được điều ngược lại. Hy vọng
cách tiếp cận theo hướng bảo vệ bên thứ ba ngay tình này sẽ được ghi
nhận trong các văn bản hướng dẫn áp dụng Luật Doanh nghiệp 2014 hay
trong Bộ luật Dân sự sửa đổi.
Thông qua hợp đồng vay hay hợp đồng bảo đảm
Theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp 2014, một số hợp đồng vay có giá
trị (tỷ lệ cụ thể được quy định trong điều lệ) của doanh nghiệp vay phải
có sự đồng ý của hội đồng thành viên hay hội đồng quản trị của bên vay.
Một cách rộng hơn, điều lệ có thể trao cho hội đồng thành viên hay hội
đồng quản trị thẩm quyền phê chuẩn mọi hợp đồng vay và/hoặc hợp đồng bảo
đảm. Khoản 3, điều 61 và khoản 1, điều 154 đều quy định chủ tọa và
người ghi biên bản họp để thông qua hợp đồng - là những người ký tên
trên biên bản - phải chịu trách nhiệm liên đới về tính trung thực và
chính xác của nội dung biên bản họp.
Vấn đề đặt ra ở đây là nếu phát hiện nội dung biên bản thiếu chính xác
hay gian dối, liệu hợp đồng vay có bị tác động (chẳng hạn vô hiệu) hay
không? Liệu ngân hàng chỉ có thể khởi kiện người ghi biên bản và chủ tọa
cuộc họp còn công ty hay các thành viên/cổ đông khác không phải chịu
trách nhiệm gì đối với ngân hàng? Cần lưu ý khi hợp đồng vay vô hiệu,
bên vay chỉ phải hoàn trả nợ gốc chứ không phải thanh toán tiền lãi cho
ngân hàng. Một giải pháp mà ngân hàng có thể nghĩ tới là vẫn là yêu cầu
biên bản họp hội đồng thành viên hay hội đồng quản trị phải có chữ ký
của tất cả các thành viên dự họp hay đại diện theo ủy quyền của họ.
Hợp đồng có cần đóng dấu?
Điều 44 của Luật Doanh nghiệp 2014 trao cho doanh nghiệp toàn quyền
quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu cũng như việc quản
lý và sử dụng con dấu trong điều lệ của mình. Điều này đồng nghĩa với
việc điều lệ bên vay có thể quy định việc có phải đóng dấu hợp đồng giao
dịch với bên thứ ba hay không và giá trị pháp lý của con dấu. Doanh
nghiệp chỉ phải thông báo mẫu con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để
đăng tải trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
Như vậy, nếu như trước đây ngân hàng thường yêu cầu bên vay cung cấp
giấy chứng nhận đã đăng ký mẫu dấu còn thời hạn hiệu lực do cơ quan công
an cấp, thì từ nay để biết chính xác xem con dấu có phải là của bên vay
hay không và hệ quả pháp lý của việc đóng dấu thì ngân hàng lại phải tự
mình tra cứu điều lệ của bên vay và tìm hiểu trên Cổng thông tin quốc
gia về đăng ký doanh nghiệp hay tại cơ quan đăng ký kinh doanh. Điều này
sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến tiến độ xem xét hồ sơ pháp lý của bên vay.
Bảo đảm khoản vay bằng tài sản của bên thứ ba
Luật Doanh nghiệp 2014 quy định người quản lý doanh nghiệp (người đại
diện theo pháp luật, giám đốc, chủ tịch hội đồng thành viên, thành viên
hội đồng quản trị...) không được sử dụng tài sản của công ty để phục vụ
lợi ích của tổ chức, cá nhân khác (điều 14.1, 71.1 (b) và 160.1(c)). Quy
định này không mới song điều đáng nói là điều 72 và 161 của văn bản này
chính thức luật hóa việc khởi kiện trách nhiệm dân sự của người quản
lý. Hệ quả dễ thấy là người quản lý công ty sẽ do dự hoặc không ký hợp
đồng bảo đảm bằng tài sản của công ty để bảo đảm khoản vay cho một cá
nhân hay tổ chức khác trừ trường hợp thành viên hay cổ đông công ty -
những người có quyền khởi kiện - ra nghị quyết chấp thuận hợp đồng bảo
đảm. Điều này có nguy cơ làm cho việc cho vay bảo đảm bằng tài sản của
người thứ ba - vốn khá phổ biến trên thế giới nhưng lại gây khá nhiều
tranh cãi trong thực tế ở Việt Nam trong thời gian vừa qua - sẽ trở nên
mong manh hơn.
Tìm hiểu nội dung điều lệ
Như đã nêu ở trên, việc có được bản điều lệ cập nhật của doanh nghiệp
có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng khi xem xét hồ sơ pháp lý của
bên vay trong khi rất nhiều nội dung của điều lệ mà ngân hàng cần biết
lại không thuộc nội dung đăng ký doanh nghiệp phải được công bố.
Đối với công ty cổ phần, điều 171 quy định điều lệ được công bố trên
trang thông tin điện tử (nếu có) của công ty. Tương tự, doanh nghiệp nhà
nước phải công bố điều lệ trên trang thông tin điện tử của công ty và
của cơ quan đại diện chủ sở hữu (điều 108). Tuy nhiên, do (i) không phải
doanh nghiệp nào cũng có trang thông tin điện tử, (ii) các điều luật
này không quy định rõ nghĩa vụ của doanh nghiệp phải công bố điều lệ cập
nhật nhất, và (iii) doanh nghiệp có thể viện ra lỗi kỹ thuật về mạng để
trốn tránh nghĩa vụ này, nên việc tìm kiếm thông tin điều lệ trên trang
thông tin điện tử có thể sẽ không thực sự khả thi.
Luật Doanh nghiệp 2014 không cấm rõ ràng việc cơ quan đăng ký kinh
doanh - là đơn vị quản lý hồ sơ đăng ký doanh nghiệp - được cung cấp
điều lệ cho ngân hàng song do có thể có nhiều thông tin nhạy cảm trong
điều lệ (như cơ chế chia lợi nhuận, việc phân bổ lỗ...) cần được bảo mật
nên trong thực tế cơ quan đăng ký kinh doanh có thể sẽ từ chối đề nghị
cung cấp điều lệ của doanh nghiệp. Nói cách khác, trong trường hợp này
ngân hàng chỉ có thể trông đợi vào sự ngay tình của doanh nghiệp vay mà
thôi.
TS. Bùi Đức Giang, Giảng viên BankPro